Thể lực là gì? Các công bố khoa học về Thể lực
Thể lực là khả năng của cơ thể trong việc thực hiện các hoạt động vận động và duy trì các chức năng của cơ thể một cách hiệu quả. Nó phản ánh khả năng của hệ th...
Thể lực là khả năng của cơ thể trong việc thực hiện các hoạt động vận động và duy trì các chức năng của cơ thể một cách hiệu quả. Nó phản ánh khả năng của hệ thống tim mạch, hô hấp, cơ, xương và các cơ quan khác hoạt động để cung cấp năng lượng cho hoạt động vận động. Thể lực được đánh giá thông qua nhiều yếu tố như sức mạnh, sức bền, linh hoạt, tốc độ và sự cân bằng.
Thể lực bao gồm nhiều yếu tố. Dưới đây là một số yếu tố cơ bản của thể lực:
1. Sức mạnh: Đây là khả năng của các cơ và cơ nhóm hoạt động để tạo lực đối kháng. Sức mạnh có thể được phân loại thành sức mạnh cơ bắp, sức mạnh cơ nâng và sức mạnh tuyến tính. Đây là yếu tố quan trọng trong các hoạt động vận động như tạ đùi, đẩy tạ, kéo dây, đá bóng, cầu lông,...
2. Sức bền: Đây là khả năng của cơ thể duy trì một hoạt động cho một khoảng thời gian dài mà không mệt mỏi hoặc bị giảm hiệu suất. Sức bền có thể được phân loại thành sức bền cơ bắp, sức bền tim mạch và sức bền tâm lý. Để nâng cao sức bền, người ta thường tập luyện bằng việc làm việc với tải trọng cao hoặc tập các bài tập cardio như chạy bộ, bơi lội, xe đạp,..
3. Linh hoạt: Đây là khả năng của cơ thể linh hoạt trong việc thực hiện các động tác mở rộng, nhịp nhàng và không gây đau nhức. Linh hoạt quan trọng để tránh chấn thương và cải thiện hiệu suất vận động. Những hoạt động như yoga, tập dãn cơ, tập căng cơ và tập thể dục nhịp điệu có thể giúp cải thiện linh hoạt.
4. Tốc độ: Đây là khả năng của cơ thể thực hiện các hoạt động vận động một cách nhanh chóng và hiệu quả. Tốc độ có thể được cải thiện thông qua việc tập luyện cardio như chạy nhanh, tập interval hoặc sprints.
5. Sự cân bằng: Đây là khả năng duy trì đồng thời trọng lượng và tâm trạng cơ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động. Sự cân bằng cơ thể là yếu tố quan trọng để tránh ngã, chấn thương và duy trì sự ổn định. Các bài tập cân bằng như đứng trên một chân, đứng trên bảng lưỡi hoặc yoga có thể giúp cải thiện sự cân bằng.
Các yếu tố này tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong việc đánh giá thể lực của một người. Đối với mỗi loại hoạt động và mục tiêu tập luyện khác nhau, những yếu tố này có thể được tập trung và phát triển theo cách tốt nhất để đạt được sự phát triển thể lực tối ưu.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thể lực":
Một phân loại về đái tháo đường và các dạng khác của không dung nạp glucose, dựa trên kiến thức đương đại về hội chứng không đồng nhất này, đã được xây dựng bởi một nhóm công tác quốc tế được tài trợ bởi Nhóm Dữ liệu Đái tháo đường Quốc gia - NIH. Phân loại này, cùng với tiêu chuẩn chuẩn đoán đái tháo đường được sửa đổi, đã được xem xét bởi các thành viên chuyên nghiệp của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ và các phiên bản tương tự đã được lưu hành bởi Hiệp hội Đái tháo đường Anh, Hiệp hội Đái tháo đường Úc, và Hiệp hội Nghiên cứu Đái tháo đường Châu Âu. ADA đã chấp thuận những đề xuất của nhóm công tác quốc tế, và Ủy ban Chuyên gia về Đái tháo đường của Tổ chức Y tế Thế giới đã chấp nhận những khuyến nghị quan trọng của nó. Đề nghị rằng phân loại này sẽ được sử dụng như một khung tiêu chuẩn để tiến hành nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu dịch tễ học nhằm thu được dữ liệu có ý nghĩa và mang tính so sánh hơn về phạm vi và tác động của các dạng đái tháo đường khác nhau và các dạng khác của không dung nạp glucose.
Điều trị y tế của đái tháo đường không được xem xét trong bài báo này, và phân loại này không phải là một nỗ lực để định nghĩa các hướng dẫn cho điều trị bệnh nhân.
Những sự thay đổi nổi bật được đề xuất trong phân loại này là:
1. Loại đái tháo đường phụ thuộc insulin, dễ bị nhiễm ceto (ketosis), có liên quan với gia tăng hoặc giảm tần suất của các kháng nguyên tương thích mô (HLA) nhất định trên nhiễm sắc thể 6 và với kháng thể tế bào đảo, được coi là một phân nhóm riêng biệt của đái tháo đường [đái tháo đường phụ thuộc insulin (IDDM)]. Loại này đã bị gọi không đúng là đái tháo đường trẻ vị thành niên. Vì nó có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, khuyến cáo rằng việc chuẩn đoán dựa trên độ tuổi khởi phát nên được loại bỏ.
2. Các loại đái tháo đường không phụ thuộc insulin, không dễ bị nhiễm ceto, không phải là thứ cấp đối với các bệnh hoặc tình trạng khác, được coi là một phân nhóm thứ hai riêng biệt của đái tháo đường [đái tháo đường không phụ thuộc insulin (NIDDM)]. Phân nhóm này được chia nhỏ - tùy thuộc vào việc có hay không thừa cân (NIDDM thừa cân và NIDDM không thừa cân, tương ứng) và bệnh nhân trong phân nhóm này có thể được đặc trưng thêm bởi loại điều trị họ nhận (insulin, thuốc hạ đường huyết uống, hoặc chế độ ăn) hoặc bởi các đặc điểm khác mà nghiên cứu viên quan tâm. Người ta tin rằng sự không đồng nhất trong phân nhóm này, và cũng trong IDDM, sẽ được chứng minh bởi các nghiên cứu tiếp theo.
3. Các loại đái tháo đường gây ra bởi điều kiện nào khác hoặc xuất hiện với tần suất gia tăng cùng với các điều kiện khác (ám chỉ mối quan hệ căn nguyên) được coi là một phân nhóm thứ ba của đái tháo đường - đái tháo đường liên quan đến các điều kiện và hội chứng nhất định. Phân nhóm này được chia theo các mối quan hệ căn nguyên đã biết hoặc nghi ngờ.
4. Lớp đái tháo đường thai kỳ bị hạn chế với phụ nữ trong đó không dung nạp glucose phát triển hoặc được phát hiện trong thời gian mang thai.
5. Những cá nhân có mức glucose huyết tương (PG) trung gian giữa những mức được coi là bình thường và những mức được coi là đái tháo đường [xem (8)] được gọi là có không dung nạp glucose suy giảm. Đề xuất rằng các thuật ngữ hóa học, tiềm ẩn, ranh giới, dưới lâm sàng, và đái tháo đường không triệu chứng, mà đã được áp dụng cho những người trong lớp này, nên được từ bỏ, vì việc sử dụng thuật ngữ đái tháo đường sẽ dẫn đến các biện pháp xã hội, tâm lý, và kinh tế không chính đáng trong bối cảnh thiếu tính nghiêm trọng của sự không dung nạp glucose của họ.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10